Cách mạng hay cách mạng xã hội theo nghĩa rộng, được hiểu như là một
sự thay đổi sâu rộng trong xã hội nhằm biến cái cơ cấu cũ đã lỗi thời
thành một cơ cấu mới tiến bộ và phù hợp hơn, trong một thời gian tương
đối ngắn. Đó chính là những biến đổi mang tính chất cơ bản và trọng yếu
trong bản chất của thượng tầng xã hội chứ không phải là những cải cách
nhỏ mang tính thứ yếu trong một vài lĩnh vực cụ thể nào đó, càng không
phải là những đổi chác chính trị nhắm đến mục tiêu thay người lãnh đạo
quốc gia của một nhóm người nhỏ (đảo chính).
Theo nghĩa hẹp, cách mạng chính là một biến cố chính trị lớn, thường
được gọi là cách mạng chính trị. Cuộc cách mạng chính trị này sẽ dẫn đến
những thay đổi toàn diện từ trật tự xã hội, chế độ chính trị của quốc
gia đến tầng lớp những người lãnh đạo. Những cuộc cách mạng chính trị
thường bắt đầu bằng những cuộc đấu tranh của đa số quần chúng nhằm lật
đổ chế độ chính trị hiện thời để tạo điều kiện xây dựng một chế độ chính
trị mới tiến bộ hơn.
1/ Tính chất bạo lực:
Dường như khi nói đến cách mạng chúng ta luôn liên tưởng ngay đến bạo
lực. Những ai từng ngồi trong nhà trường xã hội chủ nghĩa đều thấm
nhuần quan điểm rằng : bạo lực cách mạng là điều kiện tiên quyết và
không thể thiếu của việc giành chính quyền. Nhiều người phủ nhận Marx,
cho rằng ông này cổ súy bạo lực. Nhưng Marx đã đúng trong nhận thức về
lịch sử chính trị đối với những giai đoạn trước khi chúng ta tạo dựng
được những Nhà nước Hiến pháp trị. Nhìn lại lịch sử, chúng ta không thể
phủ nhận rằng hầu như bất cứ một cuộc thay đổi chế độ chính trị nào cũng
đẫm máu. Ngay cả việc tạo dựng một định chế chính trị tiến bộ như sự
hình thành Nghị viện Anh cùng với sự ra đời của bản Đại Hiến chương Tự
do vào thế kỷ 13 ở Anh quốc cũng chỉ đạt thành qua cuộc đấu tranh mang
đầy bạo lực giữa một bên là triều đình phong kiến Anh quốc (đại diện lúc
đó là vua John, sau đó là vua Henry III) với một bên là các lãnh chúa
phong kiến lãnh đạo quần chúng. Sau này, vào thế kỷ 17, để thành lập
được một thế chế quân chủ lập hiến ở Anh với quyền lực nhà vua bị Nghị
viện kiểm soát và kiềm chế cũng phải trải qua cuộc Nội chiến và cuộc
“Cách mạng Vinh quang” (Glorious Revolution) đẫm máu. Cuộc cách mạng
Pháp- một chuyển biến chính trị đặc biệt quan trọng trong lịch sử nước
Pháp, với sự ra đời của Hiến pháp 1791, xóa bỏ chế độ phong kiến không
còn phù hợp với nguyện vọng người dân và tình hình kinh tế xã hội Pháp
lúc bấy giờ, đã diễn biến trong một quá trình thậm chí còn phức tạp và
đẫm máu hơn nữa. Còn rất nhiều minh chứng khác, đến nỗi không chỉ có
Marx, hầu như tất cả chúng ta khi nghĩa đến cách mạng đều nghĩ ngay đến
những phong trào khởi nghĩa, những cuộc chém giết lớn giữa một phe đại
diện cho quần chúng và nhà cầm quyền đương thời.
Thật vậy, nhân loại đã phải trả những cái giá rất đắt, những tổn
thương nhân mạng to lớn để đi từ những trang sử cổ đại đến thời hiện
đại, để vượt qua thời kỳ của chế độ nộ lệ, rồi chế độ phong kiến mới có
thể xây dựng được những Nhà nước dân chủ tiến bộ ( tuy sự tiến bộ này
phải trải qua một thời gian nhất định để đạt được diện mạo như ngày hôm
nay). Nhưng Marx đã mắc một sai lầm to lớn khi ông cho rằng nhân loại
cần phải tiếp tục lật đổ, xóa bỏ những nhà nước dân chủ tư sản (theo
cách gọi của ông) bằng những cuộc “cách mạng vô sản” với “bạo lực cách
mạng”. Thực tế cho thấy vào cuối thế kỷ 19- đầu thế kỷ 20 chủ nghĩa cộng
sản đã mê hoặc những quốc gia nghèo đói, trình độ dân trí thấp, nền
công nghiệp hầu như không có, chủ nghĩa tư bản chưa có đủ điều kiện để
phát triển, để mà “làm cách mạng”. Họ luôn hô hào xóa bỏ chủ nghĩa tư
bản nhưng quả thực, nhiều nhất họ cũng chỉ xóa bỏ được chế độ phong
kiến, cùng với sự hỗ trợ đắc lực của tình hình xã hội đương thời đang
chất chứa những quả bom bất mãn chỉ chờ thời cơ là phát nổ. Chủ nghĩa
cộng sản hoàn toàn không “làm cách mạng” được ở những xứ sở có truyền
thống pháp trị và tự do. Chúng ta có thể thấy cách mạng chính trị, tức
sự thay đổi chế độ chính trị không thể xảy ra ở những nơi người dân có
thể dùng lá phiếu để thay đổi chính phủ. Trong các thể chế dân chủ tự do
chỉ có khủng hoảng chính phủ chứ hoàn toàn không hề có khủng hoảng chế
độ. Vậy nơi nào có sự chuyên quyền nơi đó có cách mạng, mức độ chuyên
quyền càng cao thì khả năng xảy ra sự phản kháng bằng bạo lực càng lớn.
2/ Một lý thuyết đấu tranh mới:
Đầu thế kỷ 20, thế giới chứng kiến cuộc đấu tranh giành độc lập của
nhân dân Ấn Độ từ tay Thực dân Anh với hình thức đấu tranh bất bạo động
đầy ngoạn mục dưới sự lãnh đạo của Mahatma Gandhi. Từ đây, chúng ta có
một phương thức đấu tranh giành chính quyền mới, làm thay đổi nhận thức
đấu tranh của những nhà cách mạng thời hiện đại. Cách đây hai năm, tôi
đã đọc “Từ độc tài đến Dân chủ” của Gene Sharp. Trong tác phẩm này, ông
đã phân tích khá toàn diện và cụ thể việc tổ chức và tiến trình của một
cuộc cách mạng bất bạo động. Như một bài đã viết cách đây khá lâu, là
một Phật tử, tôi cho rằng đây là phương pháp đấu tranh đầy nhân bản và
mang lại nhiều niềm hi vọng cho các dân tộc đang sống dưới các ách độc
tài, tạo cơ hội cho quần chúng “tay không tất sắt” có thể đoàn kết sức
mạnh chống lại những chính quyền độc tài vũ trang hùng mạnh.
Gần đây, đối với những người đang cổ vũ cho phương pháp đấu tranh
“bất hại” này, niềm tin và lý luận của họ lại một lẫn nữa được khẳng
định khi có thêm những minh chứng hùng hồn cho việc thực hành một cuộc
đấu tranh bất bạo động của quần chúng với sự sụp đổ của hai thể chế độc
tài ở Tunisia và Ai Cập. Dù không phải là không có thương vong, nhưng
người dân hai nước này đã thành công bằng các cuộc xuống đường không vũ
trang để phản đối và cuối cùng là lật đổ được hai nhà độc tài Ben Ali và
Mubarak. Nhưng quay sang Libya, tình hình có vẻ ngược lại và phức tạp
hơn nhiều. Phong trào chống chính phủ đã trở thành cuộc nổi dậy vũ trang
kéo dài cho đến hôm nay vẫn chưa ngả ngũ. Có ai trong chúng ta đã tự
hỏi vì sao có sự khác nhau ấy ? Cùng là các quốc gia thuộc thế giới Ả
Rập, nền công nghiệp dầu khí là trụ cột kinh tế quốc gia, sống dưới chế
độ độc tài, đang rơi vào tình trạng khó khăn về kinh tế, thiếu thốn
lương thực, công ăn việc làm của người dân không được bảo đảm…., nhưng
cuộc phản kháng của người dân Libya chống chính quyền đã diễn ra theo
một kịch bản khác hắn với Tunisia và Ai Cập. Phải chăng chính những
người lãnh đạo và những người tham gia đấu tranh không thể tự quyết
định được phương pháp và chiều hướng đấu tranh? Đây thực sự là một câu
hỏi khó.
3/ Những yếu tố chi phối tính chất cuộc đấu tranh:
Trong trình độ tri thức hạn chế của mình, người viết cho rằng ở đây
chắc hẳn phải có những yếu tố khách quan vô cùng quan trọng chi phối con
đường đấu tranh của người dân chống lại độc tài, những điều mà những
nhà đấu tranh không thể can thiệp bằng ý chí chủ quan (ý chí chủ quan
thể hiện qua trình độ tổ chức đấu tranh và ý thức chính trị của những
người tham gia đấu tranh).
Trở lại với Libya, chúng ta thấy Gadhafi là nhà độc tài sắt máu và
ngoan cố hơn hắn Ben Ali và Mubarak; trong một thời gian dài chế độ của
Gadhafi là một chế độ khủng bố, còn bản thân Gadhafi bị Tổng thống
Reagan gọi là “con chó dại…”. Đó chính là yếu tố đầu tiên tôi muốn nói
đến- bản chất và mức độ độc đoán, tham quyền cố vị của nhà độc tài hay
nói chung là chế độ độc tài sẽ chi phối nổ lực, thời gian và chiều hướng
đấu tranh của chúng ta. Tiếp đến là sức mạnh nội tại của chế độ : chế
độ độc tài càng mạnh, sự đoàn kết nội bộ của họ càng cao thì khả năng ra
đi của họ khi có một cuộc phản đối bất bạo động của người dân càng
thấp.
Tiếp theo chúng ta xét đến mối liên kết của chế độ độc tài đó với các
thế lực bên ngoài, cụ thể hơn là việc chế độ độc tài đó có quan hệ mật
thiết về ngoại giao với ai, phụ thuộc chính trị vào cường quốc nào. Nếu
“đàn anh” ngoại giao của họ là một nước có thể chế chính trị tiến bộ,
có ý thức hệ phóng khoáng thì khả năng nhượng bộ tăng lên và khả năng
đàn áp bằng vũ trang giảm xuống, so với việc “đàn anh” của họ là một
nước có chế độ chính trị cực đoan và độc tài hà khắc. Chúng ta có thể
thấy Mubarak là vị tổng thống độc tài nhưng được người Mỹ ủng hộ, vì thế
sự ra đi của ông khỏi chiếc ghế quyền lực có vẻ êm thấm hơn so với
trường hợp ông là “đàn em” của một chế độ tàn bạo như Trung cộng chẳng
hạn.
Điều tiếp theo cần được xem xét là mức độ phẫn uất của lòng dân; mức
độ căm phẫn này lại được quyết định bởi mức độ bất công xã hội, hố ngăn
cách giàu nghèo, tình trạng tội tệ của nền luật pháp, mức độ bóp nghẹt
các quyền tự do, số lượng những hành động làm tổn hại quốc gia và dân
tộc của chính quyền, mức độ tổn thương của lòng dân…. Sự phẫn uất do
những yếu tố nói trên gây ra và nung nấu trong lòng dân càng lâu dài và
càng lớn thì nguy cơ bạo động càng gia tăng. Bởi sự căm giận của lòng
người như một quả bom, nó càng lớn thì mức độ công phá và thiệt hại càng
lớn. Và cuối cùng điều phải kể đến là cục diện chính trị quốc tế. Nếu
xu hướng tự do dân chủ trên thế giới ngày càng vững mạnh, các chế độ độc
tài ngày càng yếu và ít đi, một số các cường quốc bất hảo rơi vào khủng
hoảng thì các chế độ độc tài sẽ phải xem xét lại sự thiệt hơn giữa một
bên là ra đi trong bình yên và một bên là tiếp tục ngoan cố để trở thành
tội đồ của cả dân tộc.
4/Trở lại tình hình Việt Nam:
Xét về tình hình Việt Nam, tôi thiển nghĩ Việt Nam giống Trung cộng
nhiều hơn so với các quốc gia Ả Rập kể trên. Vậy nên khi đánh giá tình
hình tôi hi vọng những người đấu tranh dân chủ của chúng ta hãy so sánh
tình hình nước ta với Trung Quốc để nhận ra những bất lợi và thuận lợi,
chứ không phải là so sánh với những nơi cách mạng vừa thắng lợi ở Bắc
Phi . Việt Nam và Trung Quốc tuy khác nhau về diện tích lãnh thổ và quy
mô chính quyền nhưng lại có nhiều điểm tương đồng như : chế độ chính
trị, ý thức hệ của giai tầng lãnh đạo, cách thức và mức độ siết chặt các
quyền tự do, bản chất nền kinh tế, tình trạng bất công xã hội …Có thể
nói Việt Nam là mô hình thu nhỏ của Trung Quốc. Thêm vào đó, ta nhận
thấy ở đây một sự phụ thuộc về chính trị và sự tồn vong mang tính liên
đới giữa Việt cộng và Trung cộng.
Tất nhiên cuộc cách mạng hoa lài đã mang lại cho chúng ta niềm cảm
hứng và hi vong to lớn về một thế giới không độc tài, về tiền đồ dân chủ
tự do của Việt Nam, bởi chúng ta đã cảm nhận sâu sắc rằng sức mạnh của ý
chí và sự đoàn kết chống độc tài của người dân Bắc Phi một lần nữa đã
minh định khao khát tự do của nhân loại là không gì cản nổi.
Theo một số nhà quan sát thời cuộc, thì chưa thể có một cuộc cách
mạng như thế ở Việt Nam vì sự quan tâm chính trị của người dân chưa cao,
và sự thiếu vắng một lực lượng đối lập mạnh, cùng với một trình độ tổ
chức cần thiết. Điều đó đúng, thế nhưng đó là mới chỉ xét mặt chủ quan
mà chưa để tâm đến tình hình khách quan, đó là sự tùy thuộc và ảnh
hưởng lẫn nhau rất nhiều ở mọi quốc gia trong thời đại Toàn cầu hóa
này. Khi nào Trung Quốc rúng động vì sự nổi dậy của người dân thì đó
cũng là lúc cho chúng ta hy vọng một cuộc “đổi đời” trong tầm tay. Đây
không phải là sự bắt chước, rập khuôn mà là sự suy xét mối tương quan
tồn tại và tình hình thực tế khách quan giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Thiết nghĩ, sự phát hiện đúng thời cơ và hành động đúng thời điểm là một
yếu tố cực kỳ quan trọng cho mỗi thắng lợi. Và việc một cuộc cách mạng
tương tự (ở Việt Nam) sẽ xảy ra trong bạo động hay bất bạo tùy thuộc vào
rất nhiều yếu tố khách quan nằm ngoài ý chí của tất cả chúng ta.
Trên đây chỉ là những ý kiến gợi mở và chắc chắn bài viết còn nhiều
thiếu sót không thể tránh khỏi. Bài viết chỉ nhằm trình bày quan điểm và
những ưu tư của cá nhân tôi. Chúng tôi – thế hệ 8x, vẫn còn quá trẻ để
có một tầm nhìn mang tính chiến lược về con đường dân chủ hóa Việt Nam.
Thế nên, chúng tôi trông cậy rất nhiều vào những bậc trưởng thượng-
những người sẽ vạch ra con đường và dẫn dắt chúng tôi, để từ đó chúng
tôi có cơ hôi đóng góp sức mình cho đất nước và biết được mình sẽ phải
làm những gì. Bởi nếu những người đi trước nhầm đường thì cả dân tộc sẽ
khốn đốn và những người trẻ chúng tôi sẽ gặp thảm họa.
Tam Kỳ ngày 13 tháng 3 năm 2011