Thứ Sáu, 5 tháng 7, 2013

Cách mạng - Bạo động hay bất bạo động?

Cách mạng hay cách mạng xã hội theo nghĩa rộng, được hiểu như là một sự thay đổi sâu rộng trong xã hội nhằm biến cái cơ cấu cũ đã lỗi thời thành một cơ cấu mới tiến bộ và phù hợp hơn, trong một thời gian tương đối ngắn. Đó chính là những biến đổi mang tính chất cơ bản và trọng yếu trong bản chất của thượng tầng xã hội chứ không phải là những cải cách nhỏ mang tính thứ yếu trong một vài lĩnh vực cụ thể nào đó, càng không phải là những đổi chác chính trị nhắm đến mục tiêu thay người lãnh đạo quốc gia của một nhóm người nhỏ (đảo chính).


Theo nghĩa hẹp, cách mạng chính là một biến cố chính trị lớn, thường được gọi là cách mạng chính trị. Cuộc cách mạng chính trị này sẽ dẫn đến những thay đổi toàn diện từ trật tự xã hội, chế độ chính trị của quốc gia đến tầng lớp những người lãnh đạo. Những cuộc cách mạng chính trị thường bắt đầu bằng những cuộc đấu tranh của đa số quần chúng nhằm lật đổ chế độ chính trị hiện thời để tạo điều kiện xây dựng một chế độ chính trị mới tiến bộ hơn.

1/ Tính chất bạo lực:
Dường như khi nói đến cách mạng chúng ta luôn liên tưởng ngay đến bạo lực. Những ai từng ngồi trong nhà trường xã hội chủ nghĩa đều thấm nhuần quan điểm rằng : bạo lực cách mạng là điều kiện tiên quyết và không thể thiếu của việc giành chính quyền. Nhiều người phủ nhận Marx, cho rằng ông này cổ súy bạo lực. Nhưng Marx đã đúng trong nhận thức về lịch sử chính trị đối với những giai đoạn trước khi chúng ta tạo dựng được những Nhà nước Hiến pháp trị. Nhìn lại lịch sử, chúng ta không thể phủ nhận rằng hầu như bất cứ một cuộc thay đổi chế độ chính trị nào cũng đẫm máu. Ngay cả  việc tạo dựng một định chế chính trị tiến bộ như sự hình thành Nghị viện Anh cùng với sự ra đời của bản Đại Hiến chương Tự do vào thế kỷ 13 ở Anh quốc  cũng chỉ đạt thành qua cuộc đấu tranh mang đầy bạo lực giữa một bên là triều đình phong kiến Anh quốc (đại diện lúc đó là vua John, sau đó là vua Henry III) với một bên là các lãnh chúa phong kiến lãnh đạo quần chúng. Sau này, vào thế kỷ 17, để thành lập được một thế chế quân chủ lập hiến ở Anh với quyền lực nhà vua bị Nghị viện kiểm soát và kiềm chế cũng phải trải qua cuộc Nội chiến và cuộc “Cách mạng Vinh quang” (Glorious Revolution) đẫm máu. Cuộc cách mạng Pháp- một chuyển biến chính trị đặc biệt quan trọng trong lịch sử nước Pháp, với sự ra đời của Hiến pháp 1791, xóa bỏ chế độ phong kiến không còn phù hợp với nguyện vọng người dân và tình hình kinh tế xã hội Pháp lúc bấy giờ, đã diễn biến trong một quá trình thậm chí còn  phức tạp và đẫm máu hơn nữa. Còn rất nhiều minh chứng khác, đến nỗi không chỉ có Marx, hầu như tất cả chúng ta khi nghĩa đến cách mạng đều nghĩ ngay đến những phong trào khởi nghĩa, những cuộc chém giết lớn giữa một phe đại diện cho quần chúng và nhà cầm quyền đương thời.

Thật vậy, nhân loại đã phải trả những cái giá rất đắt, những tổn thương nhân mạng to lớn để đi từ những trang sử cổ đại đến thời hiện đại, để vượt qua thời kỳ của chế độ nộ lệ, rồi chế độ phong kiến mới có thể xây dựng được những Nhà nước dân chủ tiến bộ ( tuy sự tiến bộ này phải trải qua một thời gian nhất định để đạt được diện mạo như ngày hôm nay). Nhưng Marx đã mắc một sai lầm to lớn khi ông cho rằng nhân loại cần phải tiếp tục lật đổ, xóa bỏ những nhà nước dân chủ tư sản (theo cách gọi của ông) bằng những cuộc “cách mạng vô sản” với “bạo lực cách mạng”. Thực tế cho thấy vào cuối thế kỷ 19- đầu thế kỷ 20 chủ nghĩa cộng sản đã mê hoặc  những quốc gia nghèo đói, trình độ dân trí thấp, nền công nghiệp hầu như không có, chủ nghĩa tư bản chưa có đủ điều kiện để phát triển, để mà “làm cách mạng”. Họ luôn hô hào xóa bỏ chủ nghĩa tư bản nhưng quả thực, nhiều nhất họ cũng chỉ xóa bỏ được chế độ phong kiến, cùng với sự hỗ trợ đắc lực của tình hình xã hội đương thời đang chất chứa những quả bom bất mãn chỉ chờ thời cơ là phát nổ. Chủ nghĩa cộng sản hoàn toàn không “làm cách mạng” được ở những xứ sở có truyền thống pháp trị và tự do. Chúng ta có thể thấy cách mạng chính trị, tức sự thay đổi chế độ chính trị không thể xảy ra ở những nơi người dân có thể dùng lá phiếu để thay đổi chính phủ. Trong các thể chế dân chủ tự do chỉ có khủng hoảng chính phủ chứ hoàn toàn không hề có khủng hoảng chế độ. Vậy nơi nào có sự chuyên quyền nơi đó có cách mạng, mức độ chuyên quyền càng cao thì khả năng xảy ra sự phản kháng bằng bạo lực càng lớn.

2/ Một lý thuyết đấu tranh mới:
Đầu thế kỷ 20, thế giới chứng kiến cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Ấn Độ từ tay Thực dân Anh  với hình thức đấu tranh bất bạo động đầy ngoạn mục dưới sự lãnh đạo của Mahatma Gandhi. Từ đây, chúng ta có một phương thức đấu tranh giành chính quyền mới, làm thay đổi nhận thức đấu tranh của những nhà cách mạng thời hiện đại. Cách đây hai năm, tôi đã đọc “Từ độc tài đến Dân chủ” của Gene Sharp. Trong tác phẩm này, ông đã phân tích khá toàn diện và cụ thể việc tổ chức và tiến trình của một cuộc cách mạng bất bạo động. Như một bài đã viết cách đây khá lâu, là một Phật tử, tôi cho rằng đây là phương pháp đấu tranh đầy nhân bản và mang lại nhiều niềm hi vọng cho các dân tộc đang sống dưới các ách độc tài, tạo cơ hội cho quần chúng “tay không tất sắt” có thể đoàn kết sức mạnh chống lại những chính quyền độc tài vũ trang hùng mạnh.

Gần đây, đối với những người đang cổ vũ cho phương pháp đấu tranh “bất hại” này, niềm tin và lý luận của họ lại một lẫn nữa được khẳng định khi có thêm những minh chứng hùng hồn cho việc thực hành một cuộc đấu tranh bất bạo động của quần chúng với sự sụp đổ của hai thể chế độc tài ở Tunisia và  Ai Cập. Dù không phải là không có thương vong, nhưng người dân hai nước này đã thành công bằng các cuộc xuống đường không vũ trang để phản đối và cuối cùng là lật đổ được hai nhà độc tài Ben Ali và Mubarak. Nhưng quay sang Libya, tình hình có vẻ ngược lại và phức tạp hơn nhiều. Phong trào chống chính phủ đã trở thành cuộc nổi dậy vũ trang kéo dài cho đến hôm nay vẫn chưa ngả ngũ. Có ai trong chúng ta đã tự hỏi vì sao có sự khác nhau ấy ? Cùng là các quốc gia thuộc thế giới Ả Rập, nền công nghiệp dầu khí là trụ cột kinh tế quốc gia, sống dưới chế độ độc tài, đang rơi vào tình trạng khó khăn về kinh tế, thiếu thốn lương thực, công ăn việc làm của người dân không được  bảo đảm…., nhưng cuộc phản kháng của người dân Libya chống chính quyền đã diễn ra theo một kịch bản khác hắn với Tunisia và Ai Cập. Phải chăng chính những người lãnh đạo và  những người tham gia đấu tranh không thể tự quyết định được phương pháp và chiều hướng đấu tranh? Đây thực sự là một câu hỏi khó.

3/ Những yếu tố chi phối tính chất cuộc đấu tranh:
Trong  trình độ tri thức hạn chế của mình, người viết cho rằng ở đây chắc hẳn phải có những yếu tố khách quan vô cùng quan trọng chi phối con đường đấu tranh của người dân chống lại độc tài, những điều mà những nhà đấu tranh không thể can thiệp bằng ý chí chủ quan (ý chí chủ quan thể hiện qua trình độ tổ chức đấu tranh và ý thức chính trị của những người tham gia đấu tranh).

Trở lại với Libya, chúng ta thấy Gadhafi là nhà độc tài sắt máu và ngoan cố hơn hắn Ben Ali và Mubarak;  trong một thời gian dài chế độ của Gadhafi là một chế độ khủng  bố, còn bản thân Gadhafi bị Tổng thống Reagan gọi là “con chó dại…”. Đó chính là yếu tố đầu tiên tôi muốn nói đến- bản chất và mức độ độc đoán, tham quyền cố vị của nhà độc tài hay nói chung là chế độ độc tài sẽ chi phối nổ lực, thời gian và chiều hướng đấu tranh của chúng ta. Tiếp đến là sức mạnh nội tại của chế độ : chế độ độc tài càng mạnh, sự đoàn kết nội bộ của họ càng cao thì khả năng ra đi của họ khi có một cuộc phản đối bất bạo động của người dân càng thấp.

Tiếp theo chúng ta xét đến mối liên kết của chế độ độc tài đó với các thế lực bên ngoài, cụ thể hơn là việc chế độ độc tài đó có quan hệ mật thiết về ngoại giao với ai, phụ thuộc chính trị vào  cường quốc nào. Nếu “đàn anh” ngoại giao của họ là một nước có thể chế chính trị tiến bộ, có ý thức hệ phóng khoáng thì khả năng nhượng bộ tăng lên và khả năng đàn áp bằng vũ trang giảm xuống, so với việc “đàn anh” của họ là một nước có chế độ chính trị cực đoan và độc tài hà khắc. Chúng ta có thể thấy Mubarak là vị tổng thống độc tài nhưng được người Mỹ ủng hộ, vì thế sự ra đi của ông khỏi chiếc ghế quyền lực có vẻ êm thấm hơn so với trường hợp ông là “đàn em” của một chế độ tàn bạo như Trung cộng chẳng hạn.

Điều tiếp theo cần được xem xét là mức độ phẫn uất của lòng dân; mức độ căm phẫn này lại được quyết định bởi mức độ bất công xã hội, hố ngăn cách giàu nghèo, tình trạng tội tệ của nền luật pháp, mức độ bóp nghẹt các quyền tự do, số lượng những hành động làm tổn hại quốc gia và dân tộc của chính quyền, mức độ tổn thương của lòng dân…. Sự phẫn uất do những yếu tố nói trên gây ra và nung nấu trong lòng dân càng lâu dài và càng lớn thì nguy cơ bạo động càng gia tăng. Bởi sự căm giận của lòng người như một quả bom, nó càng lớn thì mức độ công phá và thiệt hại càng lớn. Và cuối cùng điều phải kể đến là cục diện chính trị quốc tế. Nếu xu hướng tự do dân chủ trên thế giới ngày càng vững mạnh, các chế độ độc tài ngày càng yếu và ít đi, một số các cường quốc bất hảo rơi vào khủng hoảng thì các chế độ độc tài sẽ phải xem xét lại sự thiệt hơn giữa một bên là ra đi trong bình yên và một bên là tiếp tục ngoan cố để trở thành tội đồ của cả dân tộc.

4/Trở lại tình hình Việt Nam:

Xét về tình hình Việt Nam, tôi thiển nghĩ Việt Nam  giống Trung cộng nhiều hơn so với các quốc gia  Ả Rập kể trên. Vậy nên khi đánh giá tình hình tôi hi vọng những người đấu tranh dân chủ của chúng ta hãy so sánh tình hình nước ta với Trung Quốc để nhận ra những bất lợi và thuận lợi, chứ không phải là so sánh với những nơi cách mạng vừa thắng lợi ở Bắc Phi . Việt Nam và Trung Quốc tuy khác nhau về diện tích lãnh thổ và quy mô chính quyền nhưng lại có nhiều điểm tương đồng như : chế độ chính trị, ý thức hệ của giai tầng lãnh đạo, cách thức và mức độ siết chặt các quyền tự do, bản chất nền kinh tế, tình trạng bất công xã hội …Có thể nói Việt Nam là mô hình thu nhỏ của Trung Quốc. Thêm vào đó, ta nhận thấy ở đây một sự phụ thuộc về chính trị và sự tồn vong mang tính liên đới giữa Việt cộng và Trung cộng.

Tất nhiên cuộc cách mạng hoa lài đã mang lại cho chúng ta niềm cảm hứng và hi vong to lớn về một thế giới không độc tài, về tiền đồ dân chủ tự do của Việt Nam, bởi chúng ta đã cảm nhận sâu sắc rằng sức mạnh của ý chí và sự đoàn kết chống độc tài của người dân Bắc Phi một lần nữa đã minh định khao khát tự do của nhân loại là không gì cản nổi.

Theo một số nhà quan sát thời cuộc, thì chưa thể có một cuộc cách mạng như thế ở Việt Nam vì sự quan tâm chính trị của người dân chưa cao, và sự thiếu vắng một lực lượng đối lập mạnh, cùng với một trình độ tổ chức cần thiết. Điều đó đúng, thế nhưng đó là mới chỉ xét mặt chủ quan mà chưa để tâm đến tình hình khách quan, đó là sự tùy thuộc và ảnh hưởng  lẫn nhau rất nhiều ở mọi quốc gia trong thời đại Toàn cầu hóa này. Khi nào Trung Quốc rúng động vì sự nổi dậy của người dân thì đó cũng là lúc cho chúng ta hy vọng một cuộc “đổi đời” trong tầm tay. Đây không phải là sự bắt chước, rập khuôn mà là sự suy xét mối tương quan tồn tại và tình hình thực tế khách quan giữa Việt Nam và Trung Quốc. Thiết nghĩ, sự phát hiện đúng thời cơ và hành động đúng thời điểm là một yếu tố cực kỳ quan trọng cho mỗi thắng lợi. Và việc một cuộc cách mạng tương tự (ở Việt Nam) sẽ xảy ra trong bạo động hay bất bạo tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố khách quan nằm ngoài ý chí của tất cả chúng ta.

Trên đây chỉ là những ý kiến gợi mở  và chắc chắn bài viết còn nhiều thiếu sót không thể tránh khỏi. Bài viết chỉ nhằm trình bày quan điểm và những ưu tư của cá nhân tôi. Chúng tôi – thế hệ 8x, vẫn còn quá trẻ để có một tầm nhìn mang tính chiến lược về con đường dân chủ hóa Việt Nam. Thế nên, chúng tôi trông cậy rất nhiều vào những bậc trưởng thượng- những người sẽ vạch  ra con đường và dẫn dắt chúng tôi, để từ đó chúng tôi có cơ hôi đóng góp sức mình cho đất nước và biết được mình sẽ phải làm những gì. Bởi nếu những người đi trước nhầm đường thì cả dân tộc sẽ khốn đốn và những người trẻ chúng tôi sẽ gặp thảm họa.


Tam Kỳ ngày 13 tháng 3 năm 2011